Việt Nam chịu ràng buộc hàng hóa China nhiều nhất Đông Nam Á

Việt Nam chịu ràng buộc hàng hóa China nhiều nhất Đông Nam Á

CÁC BÀI VIẾT TRÊN WEBSITE ĐƯỢC TỔNG HỢP TỪ NHIỀU NGUỒN TRÊN MẠNG XÃ HỘI, INTERNET. CHÚNG TÔI KHÔNG CUNG CẤP CÁC THÔNG TIN NÀY.

Với vị trí địa lý liền kề và là một thị phần lớn, sự phụ thuộc thương mại vào China đang là e ngại và thách thức lớn dành cho VN.

Theo tham luận của tiến sĩ Nguyễn Đình Cung và Trần Toàn Thắng – Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) gửi tới hội thảo “Dự báo kinh tế – xã hội phục vụ lập kế hoạch trung hạn trong bối cảnh hội nhập quốc tế” ngày 2/12, Việt Nam đang giữ vị trí cao nhất trong số các công ty đối tác lớn như Mỹ, châu Âu, nước Nhật và khu vực Đông Nam Á (ASEAN) về mức độ phụ thuộc nhập khẩu từ Trung Quốc.

Xem thêm: Dịch vụ Chuyển hàng từ trung quốc về TPHCM tại đây.

Nếu như thời điểm năm 2004, chỉ số phụ thuộc của ASEAN cao hơn của Việt Nam khoảng 16%, thì đến năm 2014, mọi việc đã đổi chiều khi chỉ số của VN cao hơn ASEAN 21,7%. Quan trọng hơn, sự việc này lại có xu hướng gia tăng hối hả, đặc biệt với một số ít nhóm hàng như nguyên liệu dệt may, thiết bị, linh kiện điện tử, máy móc thiết bị cơ khí.

Auto Draft

VN đang phụ thuộc vào nhập khẩu từ China lớn nhất ASEAN và các đối tác doanh nghiệp lớn. Nguồn: báo cáo của tập thể nhóm tác giả CIEM
 

Chuyên gia của CIEM đánh giá gia tăng sự phụ thuộc nhập khẩu tạo ra rào cản lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam khi đa dạng hóa thị phần và tận dụng các ưu đãi từ quá trình hội nhập. Hầu hết các hiệp định thương mại tự do hiện giờ đều quy định tỷ lệ xuất xứ hàng hóa từ 30% trở lên, nếu cứ trông chờ vào nguồn cung từ China, các doanh nghiệp trong nước khó có thể được hưởng thuế suất ưu đãi khi xuất khẩu vào các Thị Trường khác. 

Về xuất khẩu, mô hình tính toán của CIEM cho biết thêm VN phụ thuộc vào vào thị phần Trung Quốc thấp hơn mức trung bình của ASEAN, tuy vậy từ 2008 quay trở lại đây, mức độ phụ thuộc có xu hướng đi lên. Đặc biệt, VN phần nhiều không điều chỉnh được nhiều về chỉ số dựa vào xuất khẩu trước những rủi ro địa chính trị khu vực đang xảy ra, khác với Philippines vốn cũng đang có những tranh chấp trên Biển Đông với Trung Quốc.

“Philippines đã điều chỉnh cơ cấu thương mại với China nhanh hơn nước ta nhằm giảm sự dựa vào. Có tới 46 trong 93 ngành của nước này đã giảm hoặc không thay đổi phụ thuộc vào vào China, con số này của VN là 40 trên 94 ngành. Số ngành có sự dựa vào tăng nhanh trên 200% của Việt Nam cũng lớn hơn của Philippines khá nhiều, số ngành được đánh giá là phụ thuộc từ mức trung bình đến không hề nhỏ cũng lớn gần gấp đôi so với Philippines”, báo cáo nêu.

Nước ta phải giảm bớt phụ thuộc vào dịch vụ thương mại vào Trung Quốc. Ảnh: Quý Đoàn.
 

Phó giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và thương mại – tiến sĩ Lê Quốc Phương cũng cho hay kinh tế nước ta nhờ vào nhiều vào China, thể hiện qua con số nhập siêu không ngừng tăng qua các năm, từ khoảng 200 triệu USD năm 2001 lên đến 28,9 tỷ USD vào khoảng thời gian 2014, tăng 144 lần. Hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc trực tiếp phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng ngày của các doanh nghiệp, chỉ 20% là hàng tiêu dùng.

“Điều này ảnh hưởng tác động lâu hơn đến năng lực nâng cấp công nghệ của doanh nghiệp bản địa, có chức năng nước ta lâm vào hiệu ứng 'giải công nghiệp hóa' sớm khi chỉ xuất khẩu được sang Trung Quốc các hàng hóa dựa vào tài nguyên và nhập khẩu hàng công nghiệp chế tạo thành phẩm. Về lâu dài, sẽ làm suy giảm năng suất của Việt Nam dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế trong dài hạn”, ông Phương nhận xét.

Lý do chính dẫn tới nhập siêu với Trung Quốc được vị này chỉ ra là do hệ thống cơ chế định hướng, từ tỷ giá, lãi suất, đất đai, hệ thống động lực…, mà riêng hệ thống chế độ đã tạo cho cơ cấu kinh tế xô lệch, không khuyến khích sản xuất trong nước, làm các ngành công nghiệp luôn nằm ở đáy của chuỗi giá trị.

Trong bối cảnh trên, các chuyên gia đã bàn tới các chiến thuật nhằm giảm sự phụ thuộc vào vào China, lường trước khi căng thẳng địa chính trị trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp và tranh chấp trên Biển Đông rất có khả năng xảy ra trong tương lai khiến Trung Quốc áp đặt những hạn chế trong quan hệ thương mại giữa hai nước.

“Lúc này, Trung Quốc là khách hàng lớn nhất của Việt Nam, nếu nước ta không chủ động tìm thị phần mới thì sau khi thực trạng xấu đi, kinh tế Việt Nam sẽ gặp không hề ít khó khăn”, tiến sĩ Lương Văn Khôi – Trưởng ban Kinh tế thế giới (Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội quốc gia) đánh giá.

Vị này cũng khuyến nghị Chính phủ cần có chính sách kinh tế thương mại toàn diện để tận dụng những cơ hội từ các hiệp định thương mại mang lại và tinh giảm những thách thức đối với nền kinh tế, trong số đó chú trọng đến việc giảm nhập khẩu nhóm hàng trung gian, đặc biệt là nhóm hàng bán thành phẩm, nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu, nâng cao kỹ năng cạnh tranh của nền kinh tế.

Theo vnexpress

CÁC BÀI VIẾT TRÊN WEBSITE ĐƯỢC TỔNG HỢP TỪ NHIỀU NGUỒN TRÊN MẠNG XÃ HỘI, INTERNET. CHÚNG TÔI KHÔNG CUNG CẤP CÁC THÔNG TIN NÀY.

Share this post