CÁC BÀI VIẾT TRÊN WEBSITE ĐƯỢC TỔNG HỢP TỪ NHIỀU NGUỒN TRÊN MẠNG XÃ HỘI, INTERNET. CHÚNG TÔI KHÔNG CUNG CẤP CÁC THÔNG TIN NÀY.
Song hành với mục tiêu kinh doanh tác dụng, tối đa hóa lợi nhuận thì các doanh nghiệp phải hướng tới việc bảo đảm môi trường. Đây là một trong những yếu tố bảo đảm sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Mục đích của bài viết này xác minh hệ thống kế toán môi trường là 1 nguồn thông tin quan trọng trong việc giúp đỡ ra quyết định của doanh nghiệp và kiểm soát một cách chặt chẽ.
Xem thêm: Liên hệ ngay với công ty Vinasc nếu quý công ty có nhu cầu về Dich vu ke toan thue nhanh chóng và chuyên nghiệp nhất.
.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Tổng quan về kế toán môi trường
Kế toán môi trường (KTMT) là 1 trong những vấn đề khá mới lạ ở nước ta nhưng đã xuất hiện ở các nước phát triển từ thập niên 90 của thế kỷ trước. KTMT mở ra đầu tiên ở Mỹ vào năm 1972, sau Hội nghị thượng đỉnh về môi trường tại Stockhom (Thụy Điển) vào thời điểm năm 1972, nhưng chú trọng vào việc hạch toán ở cấp độ nước nhà, tức là KTMT quốc gia.
Tuy nhiên, phải đến năm 1990, KTMT tại các doanh nghiệp (DN) bắt đầu được điều tra nghiên cứu. Đến năm 1992, Ủy ban bảo đảm môi trường (BVMT) Hoa Kỳ triển khai dự án về KTMT với nhiệm vụ khuyến kích và thúc đẩy các DN nhận thức đầy đủ các khía cạnh về chi phí môi trường, mối quan hệ giữa chi phí môi trường và các yếu tố về môi trường trong các đưa ra quyết định kinh doanh.
Khuôn mẫu về KTMT do Ủy ban BVMT Hoa Kỳ cung cấp là tài liệu cơ sở để xây dựng khuôn mẫu về KTMT của Uỷ ban cách tân và phát triển bền vững của Liên Hợp quốc, Liên đoàn Kế toán thế giới, cộng đồng Kế toán viên quản trị Hoa Kỳ, các nước Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc…
KTMT ra đời từ áp lực của công chúng và các phong trào BVMT. Áp lực này đòi hỏi các DN trong tiến trình hoạt động phải quan tâm đến các vấn đề về môi trường, tác động đến chính sách về môi trường của Chính phủ. chính sách này đòi hỏi các DN phải bồi thường thiệt hại khi tạo ra sự cố về môi trường, phải hạn chế chất thải, phải làm sạch chất thải… nhưng cũng làm tăng chi phí, ảnh hưởng đến các khoản nợ tiềm tàng, từ đó ảnh hưởng đến giá cổ phiếu và lợi ích của cổ đông.
KTMT được xây dựng trên cơ sở hệ thống Luật chế độ về môi trường quốc gia như Luật làm sạch môi trường, Luật làm sạch nước, Luật về các loài nguy hiểm, Luật Sarbanes – Oxley (Mỹ) Luật tái chế và rác thải, Luật các khoản nợ môi trường… Việc áp dụng những biện pháp BVMT và KTMT sẽ làm tăng chi phí. mặc dù, Điều này cũng giúp DN thu được một số lợi ích như: thu nhập tăng từ tiết kiệm nước, năng lượng, nguyên liệu sử dụng, giảm chất thải, giảm chi phí xử lý chất thải.
Có rất nhiều quan điểm không giống nhau về kế toán môi trường nhưng theo định nghĩa của Viện Kế toán quản trị (KTQT) môi trường: “KTMT là việc khẳng định, đo lường và phân bổ chi phí môi trường, kết hợp chi phí môi trường trong quyết định kinh tế, công bố thông tin cho các bên liên quan”. Theo tài liệu hướng dẫn thực hành KTMT của Japan thì “KTMT có phương châm hướng về sự đi lên bền vững, duy trì mối quan hệ may mắn tốt lành với cộng đồng và theo đuổi các chuyển động BVMT trong quá trình hoạt động bình thường, khẳng định lợi ích từ các hoạt động, cung cấp cách thức định lượng và hỗ trợ phương thức ra mắt thông tin”.
Theo Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC): “Hạch toán cai trị môi trường là quản lý vận động kinh tế và môi trường thông qua việc xúc tiến và thực hiện các hệ thống hạch toán và các hoạt động thực tế cân xứng liên quan đến vấn đề môi trường”. Cơ quan phát triển bền vững của Liên hợp quốc (UNDSD) thống nhất giữa các nhóm chuyên gia đến từ 30 quốc gia đã đưa ra định nghĩa như sau: “Hạch toán quản lý môi trường là việc nhận dạng, thu thập, phân tích và sử dụng loại thông tin cho việc ra quyết định nội bộ: Thông tin vật chất (phi tiền tệ) về sử dụng, giao vận và thải bỏ năng lượng, nước và vật liệu (bao gồm chất thải) và thông tin tiền tệ về các chi phí, lợi nhuận và tiết kiệm liên quan đến môi trường”.
Nhìn chung, KTMT được coi như xét từ hai góc độ: công tác kế toán và công tác quản lý môi trường. Bên cạnh đó, KTMT có rất nhiều chức năng khác nhau như giúp sức việc ra ra quyết định nội bộ trong hoạt động kinh doanh của DN nhằm hướng đến cải thiện hiệu quả hoạt động tài chính và kết quả chuyển động về môi trường. Đồng thời, cung cấp thông tin về tất cả các loại chi phí liên quan đến môi trường (trực tiếp và gián tiếp, chi phí ẩn và chi phí hữu hình…).
Ngoài ra, KTMT còn là cơ sở cho việc cung cấp thông tin ra bên ngoài phạm vi DN đến các bên liên quan như: Các ngân hàng, tổ chức tài chính, các cơ quan cai quản môi trường, cộng đồng dân cư… (như báo cáo tài chính, báo cáo môi trường của DN).
Những lợi ích của kế toán môi trường
Không chỉ đối tượng phía bên trong (nhà quản trị DN) mà ngay tất cả những đối tượng bên ngoài (chính phủ, tổ chức tài chính, cộng đồng người dân…) đều quan tâm đến các thông tin mà KTMT cung cấp, có thể đó là những thông tin về KTMT dưới dạng đo lường bằng tiền (tiền tệ), hay những báo cáo về KTMT dưới dạng vật chất (phi tiền tệ). Đây chính là việc cần thiết khi áp dụng KTMT vào một DN cụ thể (Hình 1).
Hình 1 cho biết thêm, hệ thống thông tin của DN trong hệ thống thống tin của DN nói chung và KTMT nói riêng bao gồm 2 phần chính, đó là thông tin tài chính (thu nhập, chi phí, tài sản, nguồn vốn…) và thông tin dưới dạng phi tài chính (ảnh hưởng đến môi trường, chỉ số đo lường môi trường…). Những thông tin này cần được thu thập, xử lý và ra mắt rộng rãi cho các đối tượng quan tâm phía bên trong hoặc bên ngoài DN.
Xây dựng hệ thống KTMT trong DN sẽ giúp DN đã có được nhiều lợi ích (Hình 2). cụ thể:
Một là, sâu xa khả năng cạnh tranh. Việc trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sẽ có công dụng khiến Bức Ảnh công ty không đẹp trong mắt người sử dụng, từ đó sản phẩm dần mất uy tín trong mắt quý khách.
Hai là, tạo ra những điểm mạnh mang tính chiến lược. Ví dụ: Công ty A sản xuất một loại sản phẩm. Giả sử Công ty A sáng chế hoặc đặt hàng một công ty B thiết kế bao bì sản phẩm không bằng bọc nilon như những công ty khác (bọc nilon gây ảnh hưởng môi trường), mà là bao bì bằng giấy có tác dụng tự phân hủy trong tự nhiên và thoải mái không gây tác động xấu đến môi trường. vấn đề đó sẽ tạo nên sự khác hoàn toàn khá lớn đến nhận thức của người tiêu dùng, nhất là trong bối cảnh ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng như hiện nay.
Ba là, tiết kiệm tài chính cho DN. Điều này đã được chứng minh qua một số DN tại các non sông cải cách và phát triển khi sử dụng hệ thống KTMT. Nếu các DN không sử dụng KTMT thì các khoản phạt do việc làm ô nhiễm môi trường DN không được xem như là chi phí hợp lý và phải chăng. Nếu DN chấp nhận bỏ chi phí nghiên cứu về việc sản xuất kết hợp với phát triển bền lâu với môi trường thì có khả năng tạo ra được giá trị lớn hơn. Năm 2000, Ricoch thực hiện các biện pháp BVMT và vận dụng KTMT đã tính toán được chi phí cho chuyển động bảo vệ và cai trị môi trường là 66 triệu USD, nhưng thu lại lợi ích là 79 triệu USD…
Bốn là, làm hài lòng và củng cố với các bên liên quan. Các cơ quan cai trị nhà nước, các tổ chức môi trường luôn quan tâm đến việc phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo đảm môi trường. Nếu làm tốt việc đảm bảo môi trường thì có thể giúp DN có được những ưu đãi từ các đối tượng này.
Góp phần thay đổi nhận thức về kinh tế môi trường
Ở VN nói riêng và các nước đang cải cách và phát triển nói chung chưa có tương đối nhiều DN quan tâm đến vụ việc KTMT, do đó chưa nhận thức được vai trò quan trọng của nó. Đặc biệt, khi hạch toán đầy đủ các chi phí môi trường thường dẫn đến kết quả làm tăng chi phí cho DN và đội Chi phí lên cao hơn so với hạch toán truyền thống. Để thực thi thực hiện tốt KTMT tại Việt Nam cần giải quyết một số vụ việc sau:
Thứ nhất, Luật BVMT năm 2005 đã đưa ra định nghĩa về vận động BVMT và nêu ra 3 nhóm chuyển động chính, Tuy nhiên lại chưa hề có một văn bản hướng dẫn thi hành luật quy định chi tiết cụ thể. Điều này dẫn đến tình trạng có khá nhiều các vận động để có thể quy về hoạt động BVMT, tạo ra sự lúng túng trong việc nhận dạng và phân loại chi phí môi trường. Chính vì vậy, cần đưa ra các văn bản hướng dẫn, tiêu chuẩn, quy định có liên quan đến môi trường và cai quản môi trường chặt chẽ và rõ nét hơn nhằm tạo gốc rễ cơ sở và hành lang pháp lý cho việc cải cách và phát triển hạch toán cai trị môi trường một cách rõ ràng và cụ thể hơn.
Không chỉ nhà quản trị doanh nghiệp, mà đến cả chính phủ, tổ chức tài chính, cộng đồng cư dân… đều cân nhắc thông tin mà kế toán môi trường cung cấp, có thể đó là những thông tin về kế toán môi trường dưới dạng đo lường bằng tiền tệ, hay những báo cáo về kế toán môi trường dạng phi tiền tệ.
Thứ hai, công tác BVMT ở nước ta còn chưa được thực hiện một cách đầy đủ, nên các chi phí được tính toán dựa trên những khoản mục được bỏ ra từ các tổ chức đã không phản ánh đầy đủ những khoản mục thực tế mà tổ chức phải chi trả để đảm bảo môi trường theo tiêu chuẩn. Mặt khác, các khoản chi phí đều được tính vào Chi tiêu sản phẩm, các DN không bóc tách theo mục đích chi mà tất cả được tập hợp vào các yếu tố chi phí của quá trình sản xuất kinh doanh. vụ việc này đã tạo thành sức ép về môi trường chặt chẽ hơn, yêu cầu một sự thay đổi trong hệ thống hạch toán truyền thống ở cả góc độ vĩ mô và vi mô (ban hành các chuẩn mực về kế toán môi trường…).
Thứ ba, Luật đảm bảo môi trường sửa đổi vào năm 2005 nhưng đến thời điểm này vẫn chưa ban hành chế độ kế toán cho việc tổ chức KTMT trong DN. Chế độ hiện hành chưa có các văn bản hướng dẫn DN trong việc bóc tách và theo dõi được chi phí môi trường trong chi phí sản xuất kinh doanh, chưa có các tài khoản cần thiết để hạch toán các khoản chi phí môi trường cũng giống như doanh thu hay thu nhập trong trường hợp DN có hệ thống xử lý chất thải bán quyền thải ra môi trường cho các DN cùng ngành (nếu có).
Đồng thời, khoản chi phí và thu nhập này cũng chưa thể hiện trên báo cáo hiệu quả hoạt động kinh doanh và chưa giải trình cụ thể chi tiết trên thuyết minh báo cáo tài chính nên việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của DN là chưa đầy đủ, chưa khẳng định cụ thể trọng trách của DN đối với môi trường.
Thứ tư, khuyến khích các điều tra nghiên cứu ứng dụng nhằm thống nhất sự phân định chuyển động môi trường, qua đó đưa ra khái niệm và tiêu thức phân loại chi phí môi trường, làm căn cứ ghi nhận, đo lường, hạch toán và cai trị các chi phí này.
Bảo vệ môi trường và KTMT là sự việc mang tính thời sự, cấp bách, đồng thời cũng hết sức khó khăn và nhiều thách thức. KTMT sẽ là 1 trong những công cụ cần thiết không chỉ giúp DN phân phối các yêu cầu đảm bảo môi trường mà còn cải thiện hiệu quả kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. KTMT đang là một cách thức mới mẻ và lạ mắt ở Việt Nam, do thế, việc hiểu rõ bản chất, lợi ích và vai trò của KTMT trọng sự phát triển bền vững lâu dài của xã hội nói chung và DN nói riêng là hết sức cần thiết. Việc vận dụng và phát triển KTMT cho VN sẽ Góp phần cai quản chi phí, gia tăng lợi nhuận nhắm tới phương châm phát triển bền vững lâu dài. Tạo lập bước đi bền vững cho các DN nước ta trong quy trình tiến độ hội nhập kinh tế.
CÁC BÀI VIẾT TRÊN WEBSITE ĐƯỢC TỔNG HỢP TỪ NHIỀU NGUỒN TRÊN MẠNG XÃ HỘI, INTERNET. CHÚNG TÔI KHÔNG CUNG CẤP CÁC THÔNG TIN NÀY.